HỮU NHƠN

Giả thuyết tiếp xúc của Allport

Định kiến xuất hiện từ tuổi nhỏ. Trẻ nhỏ ưu tiên chơi với những đứa trẻ có cùng màu da hay đơn giản là tình cờ mặc quần áo giống mình. Ở tuổi trưởng thành, trong những trường hợp cực đoan, bản năng định kiến này khiến chúng ta đối xử vô nhân đạo với những người bị coi là người ngoài. Theo nhà tâm lí học người Mĩ Gordon Allport, biện pháp đối phó với điều này là tiếp xúc liên nhóm. Tức là bằng cách tiến tới tiếp xúc với “thứ khác”, chúng ta phát hiện ra họ cũng là người. Có vô số nghiên cứu, rất nhiều trong số đó được thực hiện tại những điểm nóng về xung đột tôn giáo nổi tiếng như Bắc Ireland, đã khẳng định rằng những người tiếp xúc với các thành viên khác nhóm thường có thái độ tích cực hơn đối với họ.

Để việc tiếp xúc đem lại lợi ích, người bên ngoài phải được xem như đại diện của nhóm mà họ thuộc về. Việc tiếp xúc cũng cần có ý nghĩa. Khi thành viên của các nhóm xã hội khác nhau trao đổi thân mật, họ bắt đầu nhận thức được mình có nhiều điểm chung như thế nào.

Một vấn đề với nhiều nghiên cứu về giả thuyết tiếp xúc là nó chỉ tiêu biểu tại một thời điểm. Những kiểu nghiên cứu này không thể chứng minh việc tiếp xúc tạo ra các thái độ tích cực. Có thể đơn giản là người có thái độ tích cực thường tìm kiếm nhiều tiếp xúc hơn. Dù vậy khá lạc quan là một nghiên cứu gần đây gợi ý rằng “tiếp xúc mở rộng’, tức là bạn bè có quen ai đó ở nhóm ngoài, giúp giảm thiểu định kiến. Tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ tích cực với thành viên ngoài nhóm cũng có hiệu quả tương tự.

Hi, mình là Hữu Nhơn. Chào mừng bạn đến với blog của mình! Đây là nơi mình chia sẻ những câu chuyện về tâm lý, giáo dục và cuộc sống với mong muốn chạm đến những góc sâu nhất trong suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Hy vọng mỗi bài viết sẽ mang đến cho bạn chút đồng cảm, chút suy tư và chút cảm hứng để tiếp tục hành trình phát triển bản thân.

More
articles

Tâm lí học

Ý thức

Ý thức từ lâu đã là đối tượng tranh luận giữa các nhà thần kinh học và các triết gia. Nghiên cứu bộ não hiện đại chỉ mới bắt đầu cung cấp một số hiểu biết về nó, và lí thuyết khu vực làm việc toàn diện là mô hình hữu ích nhất để diễn giải các bằng chứng hiện có. Phương pháp này cung cấp hiểu biết về các rối loạn ý thức như hôn mê và tình trạng thực vật kéo dài, cùng một số thông tin gợi ý rằng các tình trạng như tâm thần phân liệt liên quan tới sự thay đổi sâu sắc của các quá trình trong không gian làm việc toàn diện.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Số bảy của Miller

Trong khi nghiên cứu của Miller tỏ ra khá vững vàng, các nghiên cứu gần đây đã đặt ra nghi vấn về nó.
Bạn có thực sự nhớ được bảy đoạn, hay bạn chỉ đang nhóm những đoạn đó thành các đoạn lớn hơn? Vào năm 2001, nhà tâm lí học người Mĩ Nelson Cowan tranh luận rằng dung lượng trí nhớ ngắn hạn ít hơn nhiều so với con số bảy. Khi chúng ta bị ngăn cản tạo ra các đoạn mới bởi đang đông thời thực hiện các nhiệm vụ khác, số lượng đoạn mà chúng ta nhớ được là gần bốn.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Mô hình nút cổ chai của Broadbent

Lí thuyết gốc của Broadbent nói rằng các tín hiệu không thể đi qua nút cổ chai sẽ biến mất. Tuy nhiên, vào năm 1960, nhà tâm lí học người Anh Anne Treisman nhận thấy thuyết của Broadbent không giải thích được việc mọi người dù đang mê mải trong các nhiệm vụ phức tạp vẫn có thể phản ứng với âm thanh gọi tên mình. Treisman tranh luận rằng các tín hiệu không được xử lí thực ra bị giữ lại, cho phép các tín hiệu quan trọng hay đặc biệt ấn tượng thu hút sự chú ý của chúng ta.

Đọc thêm »
Shopping Cart