HỮU NHƠN

Hiệu ứng giả dược

Các kì vọng và hoàn cảnh nhất định có vai trò quan trọng trong cách chúng ta phản ứng với bệnh tật, tác động đến hiệu quả của việc điều trị. Bác sĩ gây mê người Mĩ Henry Beecher đã chú ý đến điều này trong Thế chiến thứ hai. Những binh đoàn bị thương chờ về nhà cảm thấy ít đau đớn hơn. Ông phỏng đoán là các vết thương đã nhận được hiệu ứng chữa trị tích cực nào đó. Hiệu ứng giả dược là lợi ích phát sinh từ niềm tin rằng cách điều trị sẽ mang lại hiệu quả.

Khi thử nghiệm thuốc, các công ty dược phẩm phải kiểm tra sản phẩm của họ so với viên thuốc bọc đường không có tác dụng gì, để chứng minh rằng các lợi ích không chỉ là hiệu ứng giả dược.

Một số loại thuốc như Diazepam (điều trị chứng lo âu) có hiệu lực mạnh hơn giả dược, nhưng chỉ khi bệnh nhân được cho biết thuốc đó dùng làm gì.

Nói cách khác, loại thuốc này có tác dụng khuếch đại hiệu ứng giả dược. Tương tự, morphine cũng ít hiệu quả hơn nếu bệnh nhân không biết mình dùng chúng. Hiệu ứng giả dược không hề là

“tưởng tượng”. Ví dụ để giải quyết các cơn đau) hiện tượng này giúp giải phóng chất giảm đau sản có trong bộ não – các chất giảm đau nhóm opioid

Nếu các thụ thể giảm đau nhóm opioid của bò não bị một loại thuốc là naloxone chặn lại, hiệu ứng giả dược biến mất.

Hiệu ứng giả dược có một hiệu ứng song sinh độc ác tên là “hiệu ứng nocebo”, xảy ra khi một người tin rằng mình sẽ bị tổn thương hay đau đơn, ngay cả khi không có bất kì ảnh hưởng thể chất nào. Ví dụ như một số người nói rằng họ thấy khó chịu sau khi sử dụng điện thoại di động.

Các nhà khoa học không xác định được nguyên nhân vật lí, vì thế các ảnh hưởng xấu có thể do niềm tin tiêu cực của họ về công nghệ.

Hi, mình là Hữu Nhơn. Chào mừng bạn đến với blog của mình! Đây là nơi mình chia sẻ những câu chuyện về tâm lý, giáo dục và cuộc sống với mong muốn chạm đến những góc sâu nhất trong suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Hy vọng mỗi bài viết sẽ mang đến cho bạn chút đồng cảm, chút suy tư và chút cảm hứng để tiếp tục hành trình phát triển bản thân.

More
articles

Tâm lí học

Ý thức

Ý thức từ lâu đã là đối tượng tranh luận giữa các nhà thần kinh học và các triết gia. Nghiên cứu bộ não hiện đại chỉ mới bắt đầu cung cấp một số hiểu biết về nó, và lí thuyết khu vực làm việc toàn diện là mô hình hữu ích nhất để diễn giải các bằng chứng hiện có. Phương pháp này cung cấp hiểu biết về các rối loạn ý thức như hôn mê và tình trạng thực vật kéo dài, cùng một số thông tin gợi ý rằng các tình trạng như tâm thần phân liệt liên quan tới sự thay đổi sâu sắc của các quá trình trong không gian làm việc toàn diện.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Số bảy của Miller

Trong khi nghiên cứu của Miller tỏ ra khá vững vàng, các nghiên cứu gần đây đã đặt ra nghi vấn về nó.
Bạn có thực sự nhớ được bảy đoạn, hay bạn chỉ đang nhóm những đoạn đó thành các đoạn lớn hơn? Vào năm 2001, nhà tâm lí học người Mĩ Nelson Cowan tranh luận rằng dung lượng trí nhớ ngắn hạn ít hơn nhiều so với con số bảy. Khi chúng ta bị ngăn cản tạo ra các đoạn mới bởi đang đông thời thực hiện các nhiệm vụ khác, số lượng đoạn mà chúng ta nhớ được là gần bốn.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Mô hình nút cổ chai của Broadbent

Lí thuyết gốc của Broadbent nói rằng các tín hiệu không thể đi qua nút cổ chai sẽ biến mất. Tuy nhiên, vào năm 1960, nhà tâm lí học người Anh Anne Treisman nhận thấy thuyết của Broadbent không giải thích được việc mọi người dù đang mê mải trong các nhiệm vụ phức tạp vẫn có thể phản ứng với âm thanh gọi tên mình. Treisman tranh luận rằng các tín hiệu không được xử lí thực ra bị giữ lại, cho phép các tín hiệu quan trọng hay đặc biệt ấn tượng thu hút sự chú ý của chúng ta.

Đọc thêm »
Shopping Cart