HỮU NHƠN

Lí thuyết cảm xúc James-Lange

Bức thư nhẹ nhàng rơi xuống tấm thảm chùi chân. Bạn xé mở phong bì, lướt qua bức thư và đây rồi, dòng chữ quan trọng thông báo bạn đã được nhận việc. Niềm vui dâng trào khiến khuôn mặt bạn nở nụ cười rạng rỡ. Chờ đã nào. Theo lí thuyết cảm xúc của James-Lange (được đề xuất độc lập bởi nhà tâm lí học người Mỹ vĩ đại William James và nhà sinh lí học người Đan Mạch Carl Lange), cách miêu tả này bị ngược.

James và Lange tranh luận rằng một tác nhân kích thích, trong trường hợp này là tin vui, đã kích hoạt các phản ứng sinh lí như nhịp tim tăng lên và nở nụ cười, chính sự thay đổi về cơ thể và cơ mặt này mới gây ra cảm xúc như niềm vui. Cuối thế kỉ 19, James đã đưa ra ví dụ về cuộc chạm trán với một con gấu. Ông bàn luận rằng chúng ta không trở nên hoảng loạn, run rẩy và rồi bỏ chạy. Thay vào đó, chúng ta run rẩy rồi bỏ chạy và chính những thay đổi của cơ thể đó đã khiến chúng ta cảm thấy sợ hãi. Lí thuyết James-Lange bị thách thức vào đầu thế kỉ 20 bởi nhà sinh lí học Walter Cannon.

Ông thực hiện các thí nghiệm rùng rợn cho thấy những con chó vẫn thể hiện cảm xúc ngay cả sau khi ông cắt đứt tủy sống của chúng, do đó ngăn phản hồi cơ thể đến được bộ não.

Lí thuyết James-Lange đã nhận được sự ủng hộ trong những năm gần đây từ nghiên cứu cho thấy chỉ hành động mỉm cười có thể khiến con người cảm thấy hạnh phúc hơn. Hơn thế nữa, một nghiên cứu vào năm 2008 ở phụ nữ đã trải qua tiêm botox thẩm mĩ phát hiện ra vùng trung tâm cảm xúc của bộ não khi trưng ra biểu cảm tức giận ít hoạt động hơn thông thường. Các nhà khoa học đề xuất rằng botox đã gây liệt một số cơ mặt của họ, do đó giảm ảnh hưởng đến cảm xúc.

Hi, mình là Hữu Nhơn. Chào mừng bạn đến với blog của mình! Đây là nơi mình chia sẻ những câu chuyện về tâm lý, giáo dục và cuộc sống với mong muốn chạm đến những góc sâu nhất trong suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Hy vọng mỗi bài viết sẽ mang đến cho bạn chút đồng cảm, chút suy tư và chút cảm hứng để tiếp tục hành trình phát triển bản thân.

More
articles

Tâm lí học

Ý thức

Ý thức từ lâu đã là đối tượng tranh luận giữa các nhà thần kinh học và các triết gia. Nghiên cứu bộ não hiện đại chỉ mới bắt đầu cung cấp một số hiểu biết về nó, và lí thuyết khu vực làm việc toàn diện là mô hình hữu ích nhất để diễn giải các bằng chứng hiện có. Phương pháp này cung cấp hiểu biết về các rối loạn ý thức như hôn mê và tình trạng thực vật kéo dài, cùng một số thông tin gợi ý rằng các tình trạng như tâm thần phân liệt liên quan tới sự thay đổi sâu sắc của các quá trình trong không gian làm việc toàn diện.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Số bảy của Miller

Trong khi nghiên cứu của Miller tỏ ra khá vững vàng, các nghiên cứu gần đây đã đặt ra nghi vấn về nó.
Bạn có thực sự nhớ được bảy đoạn, hay bạn chỉ đang nhóm những đoạn đó thành các đoạn lớn hơn? Vào năm 2001, nhà tâm lí học người Mĩ Nelson Cowan tranh luận rằng dung lượng trí nhớ ngắn hạn ít hơn nhiều so với con số bảy. Khi chúng ta bị ngăn cản tạo ra các đoạn mới bởi đang đông thời thực hiện các nhiệm vụ khác, số lượng đoạn mà chúng ta nhớ được là gần bốn.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Mô hình nút cổ chai của Broadbent

Lí thuyết gốc của Broadbent nói rằng các tín hiệu không thể đi qua nút cổ chai sẽ biến mất. Tuy nhiên, vào năm 1960, nhà tâm lí học người Anh Anne Treisman nhận thấy thuyết của Broadbent không giải thích được việc mọi người dù đang mê mải trong các nhiệm vụ phức tạp vẫn có thể phản ứng với âm thanh gọi tên mình. Treisman tranh luận rằng các tín hiệu không được xử lí thực ra bị giữ lại, cho phép các tín hiệu quan trọng hay đặc biệt ấn tượng thu hút sự chú ý của chúng ta.

Đọc thêm »
Shopping Cart