HỮU NHƠN

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TÂM LÍ HỌC

Tóm tắt Bài viết này khái quát quá trình phát triển của tâm lý học từ thời cổ đại đến khi nó trở thành một khoa học chính thức vào thế kỷ XIX. Bài viết này phân tích những đóng góp của các nhà triết học, sinh lý học và khoa học nhân văn trong việc định hình tâm lý học như một ngành khoa học độc lập.

1. Tâm lý học trong thời cổ đại

Từ thuở sơ khai, con người đã quan tâm đến tâm trí và hành vi. Trong các nền văn minh Ai Cập, Trung Hoa và Ấn Độ, những học thuyết về linh hồn, nhân cách và những yếu tố ảnh hưởng đến suy nghĩ, cảm xúc đã xuất hiện. Tuy nhiên, chính trong triết học Hy Lạp, những khái niệm đầu tiên về tâm lý học mới được hình thành.

Plato (427-347 TCN) và Aristotle (384-322 TCN) đã đề xuất những lý thuyết khác nhau về linh hồn và những quá trình nhận thức. Plato xem tâm trí như một thực thể độc lập khỏi cơ thể, trong khi Aristotle nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm và quan sát trong nhận thức (Russell, 2004).

2. Từ thế kỷ XIX trở về trước: Tiền đề cho sự hình thành khoa học

Thế kỷ XVII và XVIII chứng kiến sự trỗi dậy của tư duy duy lý và khoa học. René Descartes (1596-1650) đề xuất quan điểm nhị nguyên tâm – vật (dualism), chính thuyết này đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tâm trí và cơ thể (Descartes, 1641). Trong khi đó, John Locke (1632-1704) và David Hume (1711-1776) nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm trong việc hình thành nhận thức, góp phần để tâm lý học tiến gần hơn đến một khoa học dựa trên thực nghiệm.

3. Tâm lý học chính thức trở thành khoa học

Tâm lý học chính thức trở thành một khoa học độc lập vào cuối thế kỷ XIX với Wilhelm Wundt (1832-1920). Năm 1879, Wundt thành lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên tại Đại học Leipzig, đánh dấu bước ngoặt trong việc chuyên nghiệp hoá ngành này (Schultz & Schultz, 2016). Wundt nhấn mạnh tâm lý học như một khoa học thực nghiệm với phương pháp quan sát hệ thống và phân tích cấu trúc tâm trí.

Song song đó, William James (1842-1910) phát triển trường phái chức năng, tập trung vào vai trò của quá trình tâm trí trong sự thích nghi đối với môi trường (James, 1890). Những nền tảng này đã mở đường cho sự phát triển của các trường phái tâm lý học hiện đại như phân tâm học, hành vi học và nhận thức học.

Tâm lý học đã trải qua một hành trình dài từ triết học đến khoa học thực nghiệm. Sự ra đời của phòng thí nghiệm tâm lý học vào thế kỷ XIX đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc chính thức hóa tâm lý học như một khoa học độc lập.

Hi, mình là Hữu Nhơn. Chào mừng bạn đến với blog của mình! Đây là nơi mình chia sẻ những câu chuyện về tâm lý, giáo dục và cuộc sống với mong muốn chạm đến những góc sâu nhất trong suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Hy vọng mỗi bài viết sẽ mang đến cho bạn chút đồng cảm, chút suy tư và chút cảm hứng để tiếp tục hành trình phát triển bản thân.

More
articles

Tâm lí học

Ý thức

Ý thức từ lâu đã là đối tượng tranh luận giữa các nhà thần kinh học và các triết gia. Nghiên cứu bộ não hiện đại chỉ mới bắt đầu cung cấp một số hiểu biết về nó, và lí thuyết khu vực làm việc toàn diện là mô hình hữu ích nhất để diễn giải các bằng chứng hiện có. Phương pháp này cung cấp hiểu biết về các rối loạn ý thức như hôn mê và tình trạng thực vật kéo dài, cùng một số thông tin gợi ý rằng các tình trạng như tâm thần phân liệt liên quan tới sự thay đổi sâu sắc của các quá trình trong không gian làm việc toàn diện.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Số bảy của Miller

Trong khi nghiên cứu của Miller tỏ ra khá vững vàng, các nghiên cứu gần đây đã đặt ra nghi vấn về nó.
Bạn có thực sự nhớ được bảy đoạn, hay bạn chỉ đang nhóm những đoạn đó thành các đoạn lớn hơn? Vào năm 2001, nhà tâm lí học người Mĩ Nelson Cowan tranh luận rằng dung lượng trí nhớ ngắn hạn ít hơn nhiều so với con số bảy. Khi chúng ta bị ngăn cản tạo ra các đoạn mới bởi đang đông thời thực hiện các nhiệm vụ khác, số lượng đoạn mà chúng ta nhớ được là gần bốn.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Mô hình nút cổ chai của Broadbent

Lí thuyết gốc của Broadbent nói rằng các tín hiệu không thể đi qua nút cổ chai sẽ biến mất. Tuy nhiên, vào năm 1960, nhà tâm lí học người Anh Anne Treisman nhận thấy thuyết của Broadbent không giải thích được việc mọi người dù đang mê mải trong các nhiệm vụ phức tạp vẫn có thể phản ứng với âm thanh gọi tên mình. Treisman tranh luận rằng các tín hiệu không được xử lí thực ra bị giữ lại, cho phép các tín hiệu quan trọng hay đặc biệt ấn tượng thu hút sự chú ý của chúng ta.

Đọc thêm »
Shopping Cart