HỮU NHƠN

Qui tắc 10.000 giờ của Ericsson

Thật hấp dẫn khi nhìn vào những người đạt thành tích thực sự phi thường – các vận động viên Olympic hay nhạc sĩ danh tiếng – và kết luận rằng chắc hẳn họ được sinh ra với tài năng đặc biệt. Tuy nhiên, theo nghiên cứu có ảnh hưởng lớn của nhà tâm lí học Anders Ericsson, con đường tới trình độ chuyên gia luôn rộng mở với bất kì ai sẵn sàng thực hiện các cấp độ rèn luyện cần thiết.

Bao nhiêu? Các nghiên cứu về những nhạc sĩ, vận động viên và kì thủ cờ vua ưu tú gợi ý rằng cần ít nhất 10.000 giờ tập luyện trong hơn 10 năm. Hơn thế nữa, không phải bất kì kiểu luyện tập nào cũng có hiệu quả. Ericsson nói rằng nó cần phải là “rèn luyện có chủ ý”, tức là bạn không chỉ lặp lại điều mình biết, mà còn liên tục tìm cách để tận dụng năng lực của mình. Điều này hiển nhiên bao gồm việc tự phê bình, những thất bại lặp lại và khả năng bền bỉ để kiên trì và cố gắng lần nữa: Một quá trình không hề vui vẻ và cách rất xa việc tập luyện nhàn nhã. Mặc dù quan điểm của Ericsson chống lại ý tưởng về tài năng bẩm sinh, khái niệm rèn luyện có chủ ý của ông ý tất nhiên đòi hỏi một sự kết hợp hiếm có của động lực lớn, sức khỏe tốt, và cơ hội để rèn luyện.

Tương tự tập luyện thật nhiều, các yếu tố tình huống khác rõ ràng cũng giúp chúng ta dễ dàng đạt được sự vĩ đại, bao gồm sinh ra trong tháng Một (lợi thế do lớn tuổi hơn các bạn bè trong lớp và trong các buổi luyện tập thể thao) và sống trong một thành phố có dân cư ít hơn 500.000 người. Yếu tố sau mang đến cơ hội để thử nhiều hoạt động khác nhau, giúp xây dựng các kĩ năng chung như tính tự giác và phối hợp nhóm.

Hi, mình là Hữu Nhơn. Chào mừng bạn đến với blog của mình! Đây là nơi mình chia sẻ những câu chuyện về tâm lý, giáo dục và cuộc sống với mong muốn chạm đến những góc sâu nhất trong suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Hy vọng mỗi bài viết sẽ mang đến cho bạn chút đồng cảm, chút suy tư và chút cảm hứng để tiếp tục hành trình phát triển bản thân.

More
articles

Tâm lí học

Ý thức

Ý thức từ lâu đã là đối tượng tranh luận giữa các nhà thần kinh học và các triết gia. Nghiên cứu bộ não hiện đại chỉ mới bắt đầu cung cấp một số hiểu biết về nó, và lí thuyết khu vực làm việc toàn diện là mô hình hữu ích nhất để diễn giải các bằng chứng hiện có. Phương pháp này cung cấp hiểu biết về các rối loạn ý thức như hôn mê và tình trạng thực vật kéo dài, cùng một số thông tin gợi ý rằng các tình trạng như tâm thần phân liệt liên quan tới sự thay đổi sâu sắc của các quá trình trong không gian làm việc toàn diện.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Số bảy của Miller

Trong khi nghiên cứu của Miller tỏ ra khá vững vàng, các nghiên cứu gần đây đã đặt ra nghi vấn về nó.
Bạn có thực sự nhớ được bảy đoạn, hay bạn chỉ đang nhóm những đoạn đó thành các đoạn lớn hơn? Vào năm 2001, nhà tâm lí học người Mĩ Nelson Cowan tranh luận rằng dung lượng trí nhớ ngắn hạn ít hơn nhiều so với con số bảy. Khi chúng ta bị ngăn cản tạo ra các đoạn mới bởi đang đông thời thực hiện các nhiệm vụ khác, số lượng đoạn mà chúng ta nhớ được là gần bốn.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Mô hình nút cổ chai của Broadbent

Lí thuyết gốc của Broadbent nói rằng các tín hiệu không thể đi qua nút cổ chai sẽ biến mất. Tuy nhiên, vào năm 1960, nhà tâm lí học người Anh Anne Treisman nhận thấy thuyết của Broadbent không giải thích được việc mọi người dù đang mê mải trong các nhiệm vụ phức tạp vẫn có thể phản ứng với âm thanh gọi tên mình. Treisman tranh luận rằng các tín hiệu không được xử lí thực ra bị giữ lại, cho phép các tín hiệu quan trọng hay đặc biệt ấn tượng thu hút sự chú ý của chúng ta.

Đọc thêm »
Shopping Cart