HỮU NHƠN

Tâm lí học Nhận thức

Tâm lí học nhận thức là nỗ lực tìm hiểu tâm trí theo thông tin mà nó xử lí và các hình thức lưu trữ thông tin này. Tâm lí học nhận thức bác bỏ các phương pháp của phân tâm học vốn cố gắng hiểu tâm trí theo hướng huyền bí, và cả các phương pháp tiếp cận của hành vi học vốn cố gắng hiểu tâm trí về mặt hành vi. Khởi đầu của cuộc cách mạng nhận thức thường được tính từ sự xuất hiện bài phê bình sách gây kích động của nhà ngôn ngữ học Noam Chomsky. Chomsky chỉ trích cuốn sách Hành vi bằng lời của nhà tâm lí học hành vi B. F. Skinner, trong đó tác giả cố gắng giải thích việc học ngôn ngữ bằng cách sử dụng các nguyên tắc hành vi. Tâm lí học nhận thức đánh dấu một bước tiến triển của tâm lí học hành vi và lấy cảm hứng từ hình ảnh ẩn dụ tâm trí giống như máy tính. Những chiếc máy tính có phần cứng và chạy phần mềm, kiểm soát dòng thông tin giữa đầu vào và đầu ra, quá trình đọc và viết các thông tin tới bộ nhớ của máy. Các nhà tâm lí học nhận thức hướng tới nghiên cứu “phần mềm” tâm lí (tâm trí) độc lập với “phần cứng” (bộ não). Giống như các nhà hành vi học, các nhà tâm lí học nhận thức theo đuổi phương pháp thực nghiệm, nhưng tin rằng mình có thể chứng minh điều gì xảy ra giữa các tác nhân kích thích và phản hồi.

Mặc dù tâm lý học nhận thức tập trung xem xét các quy trình nội tại, nó lại hướng đến tính khoa học nghiêm ngặt, dựa vào các cuộc thử nghiệm tại phòng thí nghiệm để minh chứng cho bất kỳ lý thuyết nào mà nó đưa ra. Tuy vậy, những gì xảy ra trong các cuộc thử nghiệm có đối chứng (controlled experiment) lại khó có thể được áp dụng vào viễn cảnh đời thực. Tương tự, giả định cho rằng tâm trí con người hoạt động như một chiếc máy vi tính không kể đến các thực tế chẳng hạn như con người bị mệt mỏi và xúc động, và các nhà phê bình cho rằng nó coi con người như máy móc, quy giản toàn bộ các hành vi xuống thành một quy trình nhận thức, chẳng hạn như ghi nhớ sự kiện vào ký ức. Các nhà phê bình cũng chỉ ra rằng cách tiếp cận này bỏ qua vai trò của sinh lý và di truyền.

Tuy nhiên, tâm lý học nhận thức đã chứng tỏ vai trò hữu dụng của nó trong việc chữa trị chứng mất trí nhớ và rối loạn chú ý chọn lọc (selective attention disorder). Nó cũng có giá trị trong việc giúp hiểu được sự phát triển ở trẻ, cho phép các nhà giáo dục lên kế hoạch các nội dung phù hợp cho mỗi nhóm lứa tuổi, và quyết định xem các công cụ nào là tốt nhất để truyền tải chúng. Trong hệ thống tư pháp, các nhà tâm lý học nhận thức thường xuyên được mời đến để đánh giá các báo cáo nhân chứng, nhằm xác định xem liệu nhân chứng có đang hồi tưởng lại tội ác một cách chính xác hay không.

Hi, mình là Hữu Nhơn. Chào mừng bạn đến với blog của mình! Đây là nơi mình chia sẻ những câu chuyện về tâm lý, giáo dục và cuộc sống với mong muốn chạm đến những góc sâu nhất trong suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Hy vọng mỗi bài viết sẽ mang đến cho bạn chút đồng cảm, chút suy tư và chút cảm hứng để tiếp tục hành trình phát triển bản thân.

More
articles

Tâm lí học

Ý thức

Ý thức từ lâu đã là đối tượng tranh luận giữa các nhà thần kinh học và các triết gia. Nghiên cứu bộ não hiện đại chỉ mới bắt đầu cung cấp một số hiểu biết về nó, và lí thuyết khu vực làm việc toàn diện là mô hình hữu ích nhất để diễn giải các bằng chứng hiện có. Phương pháp này cung cấp hiểu biết về các rối loạn ý thức như hôn mê và tình trạng thực vật kéo dài, cùng một số thông tin gợi ý rằng các tình trạng như tâm thần phân liệt liên quan tới sự thay đổi sâu sắc của các quá trình trong không gian làm việc toàn diện.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Số bảy của Miller

Trong khi nghiên cứu của Miller tỏ ra khá vững vàng, các nghiên cứu gần đây đã đặt ra nghi vấn về nó.
Bạn có thực sự nhớ được bảy đoạn, hay bạn chỉ đang nhóm những đoạn đó thành các đoạn lớn hơn? Vào năm 2001, nhà tâm lí học người Mĩ Nelson Cowan tranh luận rằng dung lượng trí nhớ ngắn hạn ít hơn nhiều so với con số bảy. Khi chúng ta bị ngăn cản tạo ra các đoạn mới bởi đang đông thời thực hiện các nhiệm vụ khác, số lượng đoạn mà chúng ta nhớ được là gần bốn.

Đọc thêm »
Tâm lí học

Mô hình nút cổ chai của Broadbent

Lí thuyết gốc của Broadbent nói rằng các tín hiệu không thể đi qua nút cổ chai sẽ biến mất. Tuy nhiên, vào năm 1960, nhà tâm lí học người Anh Anne Treisman nhận thấy thuyết của Broadbent không giải thích được việc mọi người dù đang mê mải trong các nhiệm vụ phức tạp vẫn có thể phản ứng với âm thanh gọi tên mình. Treisman tranh luận rằng các tín hiệu không được xử lí thực ra bị giữ lại, cho phép các tín hiệu quan trọng hay đặc biệt ấn tượng thu hút sự chú ý của chúng ta.

Đọc thêm »
Shopping Cart