HỮU NHƠN

Psychology

Tâm lí học nhân văn của Maslow

Dù bị chỉ trích bởi chỉ chú tâm vào khía cạnh hẹp trong tâm lí học khoa học, Maslow luôn xem cách tiếp cận nhân văn là thứ bổ sung cho nó hơn là hay thế, và hơi có chút thất vọng khi các ý tưởng của ông không có ảnh hưởng lớn hơn với những nhà khoa học thời đó. Tuy nhiên gần đây, phong trào tâm lí học tích cực mang tính khoa học đã quay lại chủ đề về hạnh phúc cùng tiềm năng con người và biểu dương Maslow là nguồn cảm hứng ban đầu.

Tình trạng gây nổi bật khác thường của Kapur

Những hiểu biết của chúng ta về chất hóa học trong não chưa thể giải thích đầy đủ nguy cơ của bệnh tâm thần. Bên cạnh đó, các bằng chứng cho thấy một loạt đặc điểm và kinh nghiệm của chủ thế như tiền sử mắc bệnh tâm thần của gia đình, môi trường sống, các mối quan hệ cá nhân, căng thẳng trong cuộc sống, và ngay cả biến chứng khi sinh cũng đóng một vai trò nhất định. Thần kinh học là một công cụ quan trọng, nhưng chúng ta cần nhận thức rõ mỗi cá nhân để hiểu và hỗ trợ tốt nhất cho những người đang đau khổ tinh thần.

Aaron Beck

Ai đã giết Sigmund Freud?
Câu trả lời ngắn gọn, nói theo lối ẩn dụ, đó phải là Aaron Beck. Khi Beck nhận bằng tâm thần học vào năm 1946, phân tâm học đang ở thời kì huy hoàng. Lĩnh vực này bị chi phối bói các nhân vật có sức thuyết phục, những người cầm trịch nhờ “địa vị cao” hơn là “bằng chứng.” Phương pháp đáng tin cậy duy nhất là nguyên tắc ngón cái, tức là khoảng một phần ba bệnh nhân sẽ khỏe lên, một phần ba trở bệnh xấu đi và một phần ba vẫn thế.

Thí nghiệm bệnh viện tâm thần của Rosenhan

Bác sĩ tâm thần Robert Spitzer trả lời rằng nếu ông ngậm máu và nôn ra ở một phòng cấp cứu, giả vờ bị viêm loét dạ dày tá tràng, người ta không nên trách nhân viên vì bị lừa hay nên thay đổi định nghĩa của xuất huyết nội. Mặc dù đưa ra lời chỉ trích này, Spitzer đã dẫn đầu một cuộc cải cách về định nghĩa các bệnh tâm thần. Nhờ đó, các chẩn đoán hiện đại đã ít mơ hồ hơn và không còn phụ thuộc vào sự diễn giải của mỗi bác sĩ.

Chứng cuồng loạn của Charcot

Ngành thần kinh học hiện đại để xuất răng các triệu chứng “cuồng loạn” hay “nguồn gốc do tâm lí”, như cách gọi bây giờ, có thể là do thùy trán cản trở các chức năng khác của bộ não. Vẫn chưa rõ chính xác vì sao điều này xảy ra, nhưng chúng ta biết rằng bệnh nhân có các triệu chứng này thường gặp những khó khăn về cảm xúc khác. Điều này cho thấy các triệu chứng không hoạt động theo cách là “cơ chế phòng vệ hiệu quả” như Freud đã đề ra, tuy vậy chúng có thể bị kích hoạt bởi cảm xúc theo cách khác.

Khả năng sẵn sàng học hỏi của Seligman

Mọi người dễ dàng chấp nhận quan niệm là một số nỗi sợ dễ học được hơn những cái khác. Tuy vậy, tuyên bố rằng đây thuần túy là kết quả của quá trình tiến hóa thì khó chứng minh hơn. Bởi vì chứng sợ thường không xuất hiện cho tới tuổi thiếu niên hay thành niên. Có lẽ vì chúng ta có nhiều khả năng sợ một số thứ nhất định xuất phát từ niềm tin văn hóa, qua quan sát cách những người khác phản ứng và cảnh báo của cha mẹ, cũng tương tự như qua ảnh hưởng của tiến hóa.

Bộ não chia cắt của Sperry

Văn hóa đại chúng bị cuốn theo những phát hiện của Sperry và chúng ta thường nghe thấy các ý kiến không chính xác rằng phần bên phải bộ não thì “sáng tạo” còn phần bên trái thì “lí trí”. Đây là lối suy nghĩ chung, không phải tuyệt đối, nhưng cũng sai lệch như cho rằng người nước này “tình cảm” trong khi người nước nọ thì “thực tế”. Sự thật, nghiên cứu của Sperry nhấn mạnh bộ não là một mạng lưới phức hợp và các khả năng của chúng ta phụ thuộc vào sự phối hợp giữa hai bên bán cầu để có được tiềm năng đầy đủ.

Thuyết tiền định qua cái tên

Cái tên có thể ảnh hưởng tới cuộc sống của chúng ta theo một cách khác là đánh vần các chữ cái đầu trong tên. Nhà nghiên cứu Nicholas Christenfeld ở Đại học California, San Diego, đã phân tích hàng ngàn giấy chứng tử ở thành phố California và phát hiện ra nam giới có những tên viết tắt tích cực (ví dụ, A.C.E. – xuất sắc) sống lâu hơn trung bình bốn năm so với những người có tên viết tắt trung tính, trong khi nam giới có những tên viết tắt tiêu cực (ví dụ, D.I.E. – chết) thì qua đời trung bình sớm hơn hai năm so với những người trung tính.

Hiệu ứng Flynn

Dữ liệu từ cuối thế kỉ 20 chỉ ra rằng hiệu ứng Flynn đã dừng lại ở một số quốc gia phát triển và thậm chí bắt đầu đảo ngược. Một nghiên cứu vào năm 2008 của Thomas Teasdale và David Owen với lính nghĩa vụ quân sự Đan Mạch phát hiện ra những người trắc nghiệm chỉ số thông minh vào năm 2003 – 2004 có điểm số IQ thấp hơn đáng kể so với những người trắc nghiệm vào năm 1998. Hiện chưa rõ nguyên nhân là gì.

Bẩm sinh qua cách nuôi dưỡng

Một minh chứng nữa về cách bẩm sinh và nuôi dưỡng tương tác: Ngành khoa học sinh học tiên tiến đang dần hé lộ cách mà các trải nghiệm nhất định có thể thay đổi hoạt động của gen mà thậm chí không cần thay đổi trình tự ADN (bộ gen duy nhất của mỗi người). Người ta gọi hiện tượng này là “ngoại di truyền” và đã được chứng minh, ví dụ những con chuột được chuột mẹ nuôi dưỡng sẽ ít bị căng thẳng, bởi việc được liếm lông nhiều hơn đã thay đổi chức năng của các gen liên quan đến giao tiếp giữa các tế bào não.

Shopping Cart